Bài toán giáo dục hướng đến xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện

|

Bài toán giáo dục hướng đến xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện

Tóm tắt
 
Cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, quy mô dân số Việt Nam đã không ngừng tăng lên trong những năm qua. Năm 2019, quy mô dân số Việt Nam là hơn 96,2 triệu dân, tăng thêm 10,4 triệu người chỉ trong 1 thập kỷ. Năm 2022, dân số trung bình của cả nước ước tính 99,46 triệu người. Như vậy, bước sang năm 2023, dân số Việt Nam cán mốc 100 triệu người – một dấu ấn tạo nhiều cơ hội thuận lợi để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững.
 
Là một quốc gia có dân số đông, Đảng ta xác định vai trò đặc biệt của nhân tố con người là động lực của sự phát triển xã hội, của sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì thế, xuyên suốt trong nghị quyết các kỳ đại hội, Đảng luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển đất nước.
 
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sức lan tỏa mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Đảng ta đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể về xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội đất nước. Nhiệm vụ này đặt ra bài toán giáo dục phát triển con người toàn diện trong cả ba môi trường gia đình, nhà trường và xã hội.
 
Từ khóa: giáo dục, con người, chất lượng, phát triển, toàn diện
 
Con người luôn được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển đất nước
 
Cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, quy mô dân số Việt Nam đã không ngừng tăng lên trong những năm qua. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 của Tổng cục Thống kê, tại thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019, tổng số dân của Việt Nam là hơn 96,2 triệu dân, trong đó, dân số nam là gần 47,9 triệu người, chiếm 49,8% và dân số nữ là trên 48,3 triệu người, chiếm 50,2%. Như vậy, sau 10 năm, quy mô dân số Việt Nam tăng thêm 10,4 triệu người. Dân số nhóm tuổi từ 15-64 tuổi (nhóm dân số có khả năng lao động) chiếm tỷ trọng cao với 68,0%, cho thấy Việt Nam đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”. Với quy mô dân số hơn 96,2 triệu người, Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia và Philippines) và thứ 15 trên thế giới.
 
Đến năm 2022, quy mô dân số Việt Nam tiếp tục có xu hướng tăng với dân số trung bình của cả nước ước tính 99,46 triệu người, tăng 3,4% so năm 2019. Với tốc độ tăng này, bước sang năm 2023, dân số Việt Nam sẽ cán mốc 100 triệu người. Đây là một dấu mốc quan trọng, tạo nhiều cơ hội thuận lợi và là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước nhanh và bền vững. Dấu mốc này tiếp tục giúp Việt Nam giữ vị trí là quốc gia đông dân thứ 15 trên thế giới.
 
Bảng 1: Quy mô dân số Việt Nam các năm

                                                                                     Nguồn: Tổng cục Thống kê
 
Là một quốc gia có dân số đông, Đảng ta xác định vai trò đặc biệt của nhân tố con người là động lực của sự phát triển xã hội, của sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì thế, xuyên suốt trong nghị quyết các kỳ đại hội, Đảng ta luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển đất nước. Với tư tưởng nhất quán đó, trong những năm qua, Đảng ta đã dành nhiều sự quan tâm nâng cao trí tuệ, cải thiện chất lượng sức khỏe, tầm vóc để phát triển con người Việt Nam hướng đến chân - thiện - mỹ.
 
 Trong những năm qua, ngành giáo dục Việt Nam được giao trọng trách lớn, đóng vai trò rất quan trọng trong công cuộc tạo dựng con người với những viên gạch nền tảng là trang bị kiến thức, nâng cao trí tuệ, rèn luyện đạo đức, thể chất và bồi dưỡng tình cảm, thẩm mỹ cho học sinh, sinh viên.
 
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố căn bản về nhân cách con người. Nhằm chăm lo phát triển giáo dục mầm non, bảo đảm mọi trẻ em được tiếp cận giáo dục mầm non có chất lượng, công bằng và bình đẳng, năm 2010, Chính phủ phê duyệt Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi giai đoạn 2010-2015 với mục tiêu: Bảo đảm hầu hết trẻ em 5 tuổi ở mọi vùng miền được đến lớp để thực hiện chăm sóc, giáo dục 2 buổi/ngày, đủ một năm học, nhằm chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, tiếng Việt và tâm lý sẵn sàng đi học, bảo đảm chất lượng để trẻ em vào lớp 1.

Năm 2018, khi cả nước trong thời kỳ xã hội hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, Chính phủ tiếp tục phê duyệt Đề án Phát triển Giáo dục mầm non giai đoạn 2018-2025, nhằm củng cố, phát triển mạng lưới trường, lớp mầm non phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, đáp ứng nhu cầu đến trường của trẻ em, theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế; đa dạng hóa các phương thức, nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em theo hướng đạt chuẩn chất lượng giáo dục mầm non trong khu vực và quốc tế; củng cố, duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, chuẩn bị tốt cho trẻ em vào học lớp một; phát triển giáo dục mầm non cho trẻ em dưới 5 tuổi.
 
Giáo dục mầm non lhình thành những yếu tố căn bản về nhân cách con người
 
Sau 10 năm triển khai Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi giai đoạn 2010-2015 và 2 năm thực hiện Đề án Phát triển Giáo dục mầm non giai đoạn 2018-2025, số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy, tỷ lệ huy động trẻ đến trường tăng mạnh. Tổng số trẻ mầm non được đến trường là 5,3 triệu trẻ em (tăng 1,5 triệu trẻ so với năm học 2010-2011). Trong đó, có 1,6 triệu trẻ mẫu giáo 5 tuổi (tăng gần 333,5 nghìn trẻ). Năm 2019, tỷ lệ huy động trẻ em 5 tuổi đạt 99,6% (tăng 3,56% so với năm 2011). Tỷ lệ trẻ em mẫu giáo 5 tuổi hoàn thành Chương trình giáo dục mầm non đạt 99,9% (tăng 21,3%). Tỷ lệ trẻ em mẫu giáo được học 2 buổi/ngày đạt 99% (tăng 21,3%).
 
Chất lượng giáo dục mầm non vẫn duy trì kết quả tốt trong năm học 2021-2022. Tỷ lệ huy động trẻ em mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,78%; tỷ lệ trẻ em mẫu giáo 5 tuổi hoàn thành Chương trình Giáo dục mầm non đạt 99,7%. Tỷ lệ trẻ em mẫu giáo 5 tuổi được học 2 buổi/ngày đạt 99,9%.
 
Bảng 2: Một số kết quả về phổ cập giáo dục mầm non
cho trẻ em 5 tuổi
 
                                                                                                                      Đơn vị tính: %
                                                                                           Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
 
Chất lượng giáo dục phổ thông cũng được cải thiện. Năm học 2021-2022, 63/63 tỉnh, thành phố duy trì và đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Chất lượng giáo dục của các trường phổ thông dân tộc nội trú dần được nâng lên. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở của các trường phổ thông dân tộc nội trú đạt 99,7%; tốt nghiệp trung học phổ thông đạt 98,7%.
 
Đặc biệt, học sinh Việt Nam gặt hái được nhiều thành tích ấn tượng trên các đấu trường quốc tế. Tiêu biểu là kết thúc đợt thi Olympic khu vực, quốc tế năm 2022, các đội tuyển Việt Nam đã đạt thành tích vượt trội với tổng số 32 Huy chương (gồm 12 Huy chương Vàng, 11 Huy chương Bạc, 9 Huy chương Đồng) và 5 Bằng khen. Trong đó, trên bảng xếp hạng thế giới, đội tuyển Olympic Hóa học quốc tế xếp thứ 2; Olympic Toán học quốc tế xếp thứ 4; Olympic Vật lý quốc tế xếp thứ 5.
 
Đối với giáo dục thường xuyên, công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ tiếp tục được các địa phương quan tâm. Kết quả đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông của học viên Chương trình giáo dục thường xuyên trên toàn quốc là 93,32%.
 
Trong các cơ sở giáo dục đại học, nội dung, phương pháp và chương trình đào tạo giảng dạy thường xuyên được đổi mới, đào tạo nguồn nhân lực ngày càng có chất lượng cho thị trường lao động trong nước và quốc tế. Những nỗ lực đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo đã giúp 5 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam lọt vào Bảng xếp hạng các trường Đại học Tốt nhất Toàn cầu năm 2022 (Best Global Universities) được Tạp chí uy tín của Hoa Kỳ - U.S. News & World Report công bố, gồm: Trường Đại học Duy Tân, Trường Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội và Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
 
Kết quả trên đã góp phần cải thiện thứ hạng của Việt Nam trong bảng xếp hạng quốc gia về giáo dục năm 2021 (Best Countries for Education) của US News and World Report (dựa trên khảo sát toàn cầu về 3 thuộc tính cùng trọng số của mỗi quốc gia: Có hệ thống giáo dục công phát triển tốt; mọi người có cân nhắc theo học đại học ở đó hay không; quốc gia đó có cung cấp nền giáo dục chất lượng hàng đầu hay không), với vị trí 59, tăng 5 bậc so với năm 2020.
 
Bên cạnh nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, Việt Nam đồng thời chú trọng phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp mở, linh hoạt, đa dạng, bảo đảm nguồn nhân lực lao động có kỹ năng nghề phục vụ các chương trình phục hồi kinh tế của đất nước, thích ứng được với sự thay đổi của sản xuất, kinh doanh trong kỷ nguyên số và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
 
Năm 2022, hệ thống giáo dục nghề nghiệp cả nước tuyển sinh khoảng 2.448 nghìn người, đạt 117% kế hoạch đề ra. Trong đó, trình độ cao đẳng tuyển ước đạt được 236 nghìn người, đạt 103% kế hoạch; trình độ trung cấp ước tuyển được 312 nghìn người, đạt 104% kế hoạch. Trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo khác tuyển được 1,9 triệu người, đạt 122% kế hoạch. Cũng trong năm 2022, số lượng học viên trường nghề tốt nghiệp vào khoảng 2 triệu người, đạt 115% so với kế hoạch đề ra. Trong đó, số tốt nghiệp trình độ trung cấp - cao đẳng đạt 346.000 người, trình độ sơ cấp và các chương trình nghề nghiệp khác đạt 1,75 triệu người. Những con số trên đã góp phần gia tăng tỉ lệ lao động đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ của Việt Nam.
 
Song song với việc tăng cường công t&aacute;c gi&aacute;o dục, Việt Nam cũng dành sự quan tâm lớn đến vấn đề dinh dưỡng để cải thiện thể lực của người Việt Nam. Theo kết quả của Tổng điều tra Dinh dưỡng toàn quốc (2018- 2020) của Bộ Y tế, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi (chiều cao/tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc 19,6% (mức <20%), được xếp vào mức “Trung bình” theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới. Với kết quả này, Việt Nam đang trên đà đạt được Mục tiêu Dinh dưỡng toàn cầu (giảm 40% suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em đến năm 2025). Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em ở nh&oacute;m tuổi học đường 5 - 19 tuổi cũng giảm đ&aacute;ng kể từ 23,4% năm 2010 xuống 14,8% năm 2020.
 
Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam cũng đã c&oacute; những chuyển biến t&iacute;ch cực trong thời gian qua. B&aacute;o c&aacute;o của Bộ Y tế cho thấy, năm 2020, chiều cao trung bình của nam thanh niên Việt Nam 18 tuổi là 168,1 cm (tăng 3,7 cm so với năm 2010). Chiều cao trung bình của nữ thanh niên Việt Nam là 156,2 cm (tăng 1,4 cm so năm 2010). Chiều cao trung bình của người Việt Nam đang xếp thứ 4 trong khu vực Đông Nam &Aacute; gồm 11 nước, xếp sau Singapore, Th&aacute;i Lan và Malaysia.
 
Trong những năm qua, cùng với sự ph&aacute;t triển về kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần người dân được cải thiện đ&aacute;ng kể; công t&aacute;c bảo vệ và chăm s&oacute;c sức khỏe cộng đồng c&oacute; tiến bộ. Vì thế tuổi thọ của người dân Việt Nam không ngừng tăng lên. Trong giai đoạn 2016 - 2020, tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam đã tăng từ 73,4 tuổi lên 73,7 tuổi.
 
Sự tăng trưởng về kinh tế và những cải thiện c&aacute;c chỉ số y tế, gi&aacute;o dục đã g&oacute;p phần cải thiện thứ hạng HDI của Việt Nam trên thế giới. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2016 - 2020, chỉ số tổng hợp HDI đã tăng từ 0,682 năm 2016 lên 0,687 năm 2017; 0,693 năm 2018; 0,703 năm 2019 và 0,706 năm 2020. T&iacute;nh giai đoạn năm 2016 – 2020, chỉ số HDI tăng 0,024 với tốc độ tăng 3,52%; bình quân mỗi năm tăng 0,87%. Thứ hạng HDI của Việt Nam tăng từ vị tr&iacute; 118 năm 2016; 119 năm 2017 và 118 năm 2018 lên vị tr&iacute; 117 năm 2019 trong tổng số 180 quốc gia, vùng lãnh thổ thế giới. Đặt biệt, với chỉ số HDI đạt 0,703 năm 2019, Việt Nam đã điền tên mình vào nh&oacute;m Ph&aacute;t triển Con người Cao (0,700 ≤ HDI < 0,800).  
 
Bảng 3: HDI và thứ hạng của Việt Nam, c&aacute;c năm 2016-2019
 

                                                                                    Nguồn: Tổng cục Thống kê

 
Năm 2021, dù tốc độ tăng trưởng trung bình chậm lại, c&aacute;c nh&oacute;m và c&aacute; nhân dễ bị tổn thương đã c&oacute; những giai đoạn rất kh&oacute; khăn, nhưng Việt Nam đã tr&aacute;nh được sự đảo ngược tiến bộ ph&aacute;t triển con người. Theo b&aacute;o c&aacute;o Ph&aacute;t triển con người (HDR) toàn cầu 2021/22 với chủ đề “Thời đại bất định, cuộc sống bất an: Xây dựng tương lai trong một thế giới đang chuyển đổi” được Chương trình Ph&aacute;t triển của Liên hợp quốc tại Việt Nam công bố ngày 9/9/2022, năm 2021, gi&aacute; trị HDI của Việt Nam là 0,703, về cơ bản không thay đổi so với gi&aacute; trị của năm 2019. Tuy nhiên, Việt Nam đã tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu từ 117 vào năm 2019 lên 115 vào năm 2021.
 
Việt Nam đã tăng hai bậc trong bảng xếp hạng ph&aacute;t triển con người toàn cầu

Giải bài to&aacute;n gi&aacute;o dục để ph&aacute;t triển con người toàn diện
 
Kế thừa và ph&aacute;t triển quan điểm của c&aacute;c kỳ Đại hội trước, tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục khẳng định ph&aacute;t triển con người - nhân tố quyết định sự ph&aacute;t triển xã hội, để minh chứng sâu sắc cho quan điểm mang t&iacute;nh chiến lược: Tất cả do con người, tất cả vì con người, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự ph&aacute;t triển. Đảng chủ trương: “Ph&aacute;t huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự ph&aacute;t triển; lấy gi&aacute; trị văn h&oacute;a, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm ph&aacute;t triển bền vững; phải c&oacute; cơ chế, ch&iacute;nh s&aacute;ch ph&aacute;t huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi ch&iacute;nh s&aacute;ch của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh ph&uacute;c của Nhân dân”.
 
Đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể về xây dựng, ph&aacute;t triển con người Việt Nam toàn diện, đ&aacute;p ứng yêu cầu ph&aacute;t triển bền vững kinh tế - xã hội đất nước, Đại hội XIII của Đảng khẳng định, trước hết, lấy con người làm trung tâm và kiên định ph&aacute;t triển con người Việt Nam toàn diện.
 
Thực hiện chủ trương trên, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ, cần: “Xây dựng con người Việt Nam ph&aacute;t triển toàn diện, c&oacute; sức khỏe, năng lực, trình độ, c&oacute; &yacute; thức, tr&aacute;ch nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc”; thực hiện phương châm: “Đào tạo con người theo hướng c&oacute; đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, &yacute; thức tr&aacute;ch nhiệm công dân, xã hội; c&oacute; kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy s&aacute;ng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”.
 
Tại phiên họp đầu tiên của Ch&iacute;nh phủ kh&oacute;a XV ngày 11/8/2021, Tổng B&iacute; thư Nguyễn Ph&uacute; Trọng ph&aacute;t biểu: “Con người ph&aacute;t triển toàn diện còn là con người c&oacute; sự cân bằng giữa cuộc sống vật chất và tinh thần, hài hòa giữa c&aacute;c nhu cầu kinh tế và đời sống đạo đức, văn h&oacute;a. Đ&oacute; cũng là những người c&oacute; tinh thần yêu nước, &yacute; ch&iacute; tự cường, tr&aacute;ch nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, &yacute; thức tuân thủ ph&aacute;p luật, năng lực s&aacute;ng tạo, giàu lòng nhân &aacute;i, tinh thần đoàn kết để c&oacute; thể xây dựng thành công một quốc gia phồn vinh, hạnh ph&uacute;c.”
 
Trong bối cảnh toàn cầu h&oacute;a và hội nhập quốc tế, sức lan tỏa mạnh mẽ của cuộc C&aacute;ch mạng công nghiệp 4.0, đời sống kinh tế xã hội đất nước thay đổi theo cả chiều hướng t&iacute;ch cực và kèm theo cả những th&aacute;ch thức; đồng thời đã và đang làm thay đổi sâu sắc về c&aacute;ch sống, c&aacute;ch làm việc của mỗi con người. Trong vòng xo&aacute;y đ&oacute;, bài to&aacute;n gi&aacute;o dục để ph&aacute;t triển con người toàn diện được đặt ra để đào tạo ra những “công dân toàn cầu”, c&oacute; khả năng hành động hợp t&aacute;c, c&oacute; tr&aacute;ch nhiệm, s&aacute;ng tạo giải quyết những vấn đề chung của cộng đồng nhưng vẫn mang bản sắc văn h&oacute;a dân tộc Việt Nam cùng năng lực tiếp thu tinh hoa văn h&oacute;a của nhân loại.
 
Để ph&aacute;t triển con người toàn diện, ba môi trường là gia đình, nhà trường và xã hội đ&oacute;ng vai trò đặc biệt quan trọng trong công t&aacute;c gi&aacute;o dục.
 
Gia đình là chiếc nôi hình thành, gi&aacute;o dục và nuôi dưỡng nhân c&aacute;ch con người, là môi trường đầu tiên đưa con người trở thành những "con người xã hội". Để c&oacute; được thế hệ trẻ ph&aacute;t triển toàn diện, Nhà nước cần c&oacute; quy định rõ hơn về vai trò, tr&aacute;ch nhiệm của gia đình tham gia vào hoạt động gi&aacute;o dục con người toàn diện, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
 
Trong mỗi gia đình, bên cạnh việc kế thừa và ph&aacute;t huy những gi&aacute; trị tốt đẹp của gia đình truyền thống cần học hỏi, tiếp thu những gi&aacute; trị mới của gia đình hiện đại thời kỳ hội nhập (như năng động, s&aacute;ng tạo; dân chủ, bình đẳng trong quan hệ; công bằng trong tr&aacute;ch nhiệm và thụ hưởng; không phân biệt đối xử giới; tôn trọng tự do c&aacute; nhân, tôn trọng sự lựa chọn c&aacute; nhân; &yacute; thức thượng tôn ph&aacute;p luật…) để xây dựng những quy chuẩn mới cho gi&aacute;o dục gia đình.
 
Muốn làm được điều đ&oacute;, cha mẹ cần thường xuyên quan tâm đến con c&aacute;i, để hiểu và nắm bắt được những biểu hiện con trẻ trong đời sống thường ngày, từ đ&oacute; kịp thời g&oacute;p &yacute;, định hướng cho con c&aacute;i, gi&uacute;p ch&uacute;ng biết điều chỉnh, hoàn thiện mình. Trong gi&aacute;o dục gia đình, người lớn cần nêu gương cho trẻ nhỏ học tập, làm theo những điều tốt đẹp, c&oacute; gi&aacute; trị văn h&oacute;a, đạo đức cao qu&yacute;; thiết lập môi trường gi&aacute;o dục gia đình c&oacute; t&iacute;nh dân chủ, bình đẳng, để g&oacute;p phần hình thành năng lực, bản lĩnh cần thiết của mỗi con người được gi&aacute;o dục hiện đại từ khi còn nhỏ. Mỗi bậc cha, mẹ cần không ngừng học hỏi, t&iacute;ch lũy thêm kiến thức, kỹ năng về nuôi dưỡng và dạy dỗ con c&aacute;i theo mô hình nhân c&aacute;ch theo định hướng c&aacute; nhân là công dân xã hội toàn cầu. Thiết lập và duy trì sự kết nối, chia sẻ giữa giữa gia đình với nhà trường để từ đ&oacute; c&oacute; phương ph&aacute;p gi&aacute;o dục phù hợp, toàn diện và c&oacute; định hướng đ&uacute;ng đắn với từng trẻ nhỏ.
 
Ph&aacute;t triển con người toàn diện cũng đặt ra trọng tr&aacute;ch lớn đối với ngành gi&aacute;o dục Việt Nam. Để đ&aacute;p ứng yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng đất nước, của thời kỳ công nghiệp h&oacute;a, hiện đại h&oacute;a và hội nhập quốc tế, ngành gi&aacute;o dục Việt Nam cần c&oacute; những giải ph&aacute;p đào tạo một thế hệ trẻ c&oacute; đạo đức, tr&iacute; tuệ, thể chất tâm hồn và tình cảm. Một trong những giải ph&aacute;p cốt lõi là "đổi mới căn bản, toàn diện gi&aacute;o dục và đào tạo Việt Nam". Ngành gi&aacute;o dục cần xây dựng một môi trường học mở, c&oacute; t&iacute;nh phản biện; chương trình đào tạo theo định hướng ph&aacute;t triển năng lực - dựa trên trải nghiệm; đổi mới phương ph&aacute;p gi&aacute;o dục theo hướng ph&aacute;t huy t&iacute;nh t&iacute;ch cực, sự s&aacute;ng tạo của người học; đề cao tinh thần "đổi mới s&aacute;ng tạo", ph&aacute;t huy tr&iacute; thông minh, &oacute;c s&aacute;ng tạo của con người Việt Nam. Đồng thời, tăng cường gi&aacute;o dục về nghệ thuật nhằm nâng cao năng lực mỹ cảm, thị hiếu lành mạnh của mỗi bạn trẻ; sử dụng tiếp cận đ&aacute;nh gi&aacute; toàn diện thông qua c&aacute;c công cụ phù hợp trong đ&aacute;nh gi&aacute; năng lực công dân toàn diện.
 
Bên cạnh việc "dạy chữ", "dạy nghề", ngành gi&aacute;o dục Việt Nam cũng cần ch&uacute; trọng cả việc "dạy làm người", phối hợp với gia đình tập trung gi&aacute;o dục đạo đức, lối sống, nhân c&aacute;ch của thế hệ trẻ, để hình thành những con người vừa tôn trọng đạo l&yacute; truyền thống, vừa c&oacute; những phẩm chất đạo đức của thời đại mới.
 
Môi trường xã hội cũng đ&oacute;ng vai trò không thể thiếu trong gi&aacute;o dục ph&aacute;t triển con người toàn diện. Cần thiết xây dựng một xã hội học tập, một xã hội văn minh với c&aacute;c gi&aacute; trị chân, thiện, mỹ; biết phê ph&aacute;n và lên &aacute;n những hành động đi tr&aacute;i với những quy chuẩn đạo đức xã hội; gi&aacute;o dục con người toàn diện.
 
Với những giải ph&aacute;p trên, tin tưởng rằng công cuộc ph&aacute;t triển, xây dựng con người Việt Nam sẽ đạt được nhiều thành tựu mới; con người ngày càng toàn diện, trở thành công dân toàn cầu, g&oacute;p phần xây dựng thành công một quốc gia phồn vinh, hạnh ph&uacute;c”./.
ThS. Nguyễn Phương Anh
Khoa Công t&aacute;c xã hội – Đại học Lao động Xã hội
 Tài liệu tham khảo:
 
 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ XIII;
 
Ch&iacute;nh phủ, Đề &aacute;n Phổ cập gi&aacute;o dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi giai đoạn 2010-2015;
 
Ch&iacute;nh phủ, Đề &aacute;n Ph&aacute;t triển Gi&aacute;o dục mầm non giai đoạn 2018-2025;
 
Tổng cục Thống kê, Kết quả toàn bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009; 2019;
 
Tổng cục Thống kê, B&aacute;o c&aacute;o tình hình kinh tế - xã hội qu&yacute; IV và năm 2020,
 
 qu&yacute; IV và năm 2021, qu&yacute; IV và năm 2022;
 
Tổng cục Thống kê, B&aacute;o c&aacute;o Chỉ số ph&aacute;t triển con người Việt Nam giai đoạn 2016-2020;
 
Bộ Gi&aacute;o dục và Đào tạo, Kết quả 10 năm thực hiện Phổ cập gi&aacute;o dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi;
 
Bộ Gi&aacute;o dục và Đào tạo, B&aacute;o c&aacute;o kết quả thực hiện kế hoạch nhiệm vụ năm học 2021-2022;
 
Bộ Y tế, Kết quả Tổng điểu tra Dinh dưỡng năm 2019-2020;
 
Chương trình Ph&aacute;t triển Liên hợp quốc (UNDP), B&aacute;o c&aacute;o Ph&aacute;t triển con người (HDR) toàn cầu 2021/22 “Thời đại bất định, cuộc sống bất an: Xây dựng tương lai trong một thế giới đang chuyển đổi”;
 
Tạp ch&iacute; Cộng sản, Gi&aacute;o dục con người Việt Nam ph&aacute;t triển toàn diện trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, GS, TS. Nguyễn Qu&yacute; Thanh - PGS, TS. Trần Thành Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, ngày 24-10-2020.
 
 
 

Link Tải Xuống PS Electronics